Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

Vì sao người Hoa ở Chợ Lớn thường kinh doanh thành công

Cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn phát triển mạnh mẻ, đến nay đã không còn gói gọn trong quy mô Sài Gòn nữa, mà đã dần trở thành những DN lớn nhất trên đất Việt.

Phải biết yêu nghề kính nghiệp

Trước năm 1975, người Hoa gốc Minh Hương đã tạo ra những cái tên, cũng là những đỉnh cao của nghề nghiệp tại Sài Gòn: vua thép, vua gạo, vua bột giặt, vua xà bông, vua bột mì… Cho đến khúc quanh thời cuộc của ngày thống nhất thì những cái tên này mới dần bị suy tàn, nhưng lại chuẩn bị cho một cuộc tái sinh…

Và xuất phát điểm lại từ số không. Có người bắt đầu bằng việc bán một mớ đồ cũ trên vỉa hè để nuôi mộng lớn như ông Lương Vạn Vinh, ông chủ hiện thời của nước rửa chén Mỹ Hảo. Có người chuyển từ nghề đông y sang làm giày dép như ông Vưu Khải Thành của Biti’s. Cũng có người xoay xở với những bạn hàng nhỏ lẻ ở Campuchia như gia đình ông Trần Kim Thành của Kinh Đô. Hay cũng có người bắt đầu lại bằng việc đi làm thuê cho một hiệu bánh như ông Kao Siêu Lực, giờ có một chuỗi cửa hàng bánh hàng đầu là ABC…

Ông Cổ Gia Thọ – Chủ tịch Công ty Thiên Long nhớ lại câu chuyện về hai người đàn anh đã giúp đỡ mình lúc khởi nghiệp: “Chúng tôi gọi anh Lý Ngọc Minh (Chủ tịch Công ty gốm sứ Minh Long – pv) và anh Vưu Khải Thành là những đại ca cổ thụ trong cộng đồng doanh nghiệp người Hoa không chỉ vì khả năng kinh doanh, mà còn là sự bảo bọc, hướng dẫn anh em làm ăn và luôn sẵn sàng chia sẻ những khó khăn của nhau nữa…”

Với ông Cổ Gia Thọ, một trong những ân tình mà ông nhớ là việc ông Vưu Khải Thành hay tổ chức hội nghị khách hàng, chia sẻ những định hướng, thảo luận việc mở rộng thị trường… và sẵn lòng để những doanh nhân trẻ hơn, non nghề hơn như ông Thọ vào tham dự để nghe, để học, để tạo ra những kết nối kinh doanh. Người ta bảo “thà cho vàng chứ không chỉ đàng làm ăn” nhưng với cộng đồng người Hoa, sức mạnh tập thể và sự hướng dẫn là một trách nhiệm rất lớn.

“Hai mươi mấy năm trước, khi tôi còn bập bẹ làm một cơ sở bút bi nhỏ xíu thì anh Thành đã là người sáng lập và chủ tịch của hội công kỹ nghệ gia quận 6, như một kiểu hiệp hội doanh nghiệp bây giờ để làm điểm gặp gỡ, kết nối và chia sẻ công chuyện với nhau. Lúc đó tôi không quen anh Thành, nhưng xin đi sinh hoạt, và dần dần học được nhiều điều lắm. Chẳng hạn sự thẳng thắn, trung thực và cương quyết. Trước đây, tôi là người hay rụt rè để ra những quyết định quan trọng nhưng anh Thành khuyên phải biết nắm cơ hội và chấp nhận những rủi ro, thất bại nếu muốn làm chuyện lớn…”, ông Thọ kể.



Cộng đồng doanh nghiệp người Hoa vẫn thường nhắc nhở nhau học tập nguyên tắc  của hai ông Lý Ngọc Minh và Vưu Khải Thành trong kinh doanh. Theo đó, nguyên tắc Lý Ngọc Minh là: Đơn giản mà hiệu quả;  An toàn hai lần; Làm cho bằng được; Vui vẻ cởi mở; Hợp tác chân tình. Nguyên tắc Vưu Khải Thành yêu cầu: Giải phóng tư tưởng; Thực sự cầu thị; Tích cực tìm tòi; Mạnh dạn sáng tạo; Kiên trì phấn đấu; Không ngại gian nan; Học tập nước ngoài; Không ngừng vươn lên.
Còn theo ông Cổ Gia Thọ, một trong những bí quyết thành công trong kinh doanh của người Hoa là: Phải biết yêu nghề kính nghiệp. Qủa thật, nếu không dốc trọn cuộc đời cho một công việc mà mình đã chọn, thì không có cách nào tạo ra những đế chế vững vàng đến mực được gọi là vua của một nghề. Và hiện nay, đã lấp lánh những ông vua của từng ngành, mà đa phần đều là người gốc Hoa: vua gốm sứ Lý Ngọc Minh, vua giày dép Vưu Khải Thành, vua bánh Kao Siêu Lực, vua nước rửa chén Lương Vạn Vinh, vua nhựa Trần Duy Hy, vua vải Thái Tuấn Chí…

Hệ sinh thái kinh doanh của người Hoa

Khái niệm “hệ sinh thái” (ecosystem) dùng trong kinh doanh dạo này hay được nhắc đến nhiều thông qua chuyện người Israel xây nguyên một bệ phóng cho các doanh nghiệp trẻ với định vị “quốc gia khởi nghiệp” nhưng nếu chịu khó nhìn ngó, thì tự thân các doanh nhân gốc Hoa ở Việt Nam cũng đã xây nên những nền tảng đáng kể cho công chuyện làm ăn của họ và con cháu. Họ khởi nghiệp khác với người Việt, vì có cả một cộng đồng hỗ trợ: bạn hàng cho mua thiếu lâu hơn, các đàn anh trong nghề chỉ vẽ đôi đường và còn giới thiệu đối tác, người trong tộc luôn ủng hộ…

Đầu tiên, đó là vai trò của các bang hội, tức là các “bang” và các “hội”. Không còn là những tổ chức mang màu sắc chính trị như thời Thiên địa hội của đời trước ông Vương Hồng Sển nữa, mà những bang hội sau này hoạt động như những thành luỹ gìn giữ giá trị văn hoá truyền thống của một cộng đồng người gốc Hoa chung một nguồn cội. Đó có thể là hội quán Phước Kiến của những người từ vùng giáp ranh Đài Loan sang miền Nam lập nghiệp, có thể là hội quán Triều Châu (hay Tiều Châu), hội quán Quảng Đông…

Sau này, ranh giới địa lý của những bang hội này cũng dần xoá nhoà, họ sinh hoạt chung với nhau nhiều hơn, nhưng vẫn khá kín tiếng và ít giao du với người bên ngoài. Người bang trưởng, hay hội trưởng, là người đức cao vọng trọng trong cộng đồng, phải chăm lo nhiều thứ. Thường thì để làm chức này, người ta phải bỏ ra nhiều tiền để đóng góp cho cộng đồng và thay vì để lấy chức quyền thì họ lấy cái trách nhiệm và niềm tự hào được đóng góp cho cộng đồng.

Còn nhớ mỗi năm, khu hội quán Nghĩa An bên cạnh trường tiểu học Chính Nghĩa, quận 5 đều có tổ chức bán đấu giá những cái lồng đèn tuyệt đẹp để lấy tiền chăm lo đời sống và giáo dục cho con em gốc Hoa. Không giương cờ gióng trống hot boy hot girl hay trực tiếp truyền hình MC nổi tiếng gì cả, chỉ có những “đại bô lão” ngồi ghế, con cháu em út quây xung quanh trong một không gian ngập sắc màu, trang phục truyền thống. Nhưng con số cứ tăng dần, chục triệu, trăm triệu, rồi một tỉ, hai tỉ đồng được hô lên thu tiền ngay, làm chương trình công khai sổ sách ngay. Những cái tên khá quen như Trầm Bê hay còn xa lạ như một bà cụ đã già lắm được cẩn thận ghi chép lại, và họ cũng sẽ là những người được cộng đồng nhắc đến, được những người trẻ nhìn đó mà làm gương.

Bang hội này, giống như một lớp màn chắn, không cho những biến đổi quá nhanh của xã hội xông vào làm hỏng đi truyền thống của họ. Con cháu có thể đi học trường Hoa ngữ song song với trường Việt ngữ, được dạy những bài vỡ lòng về làm ăn theo kiểu công tử phải đi cọ thùng, và quan trọng nhất, họ được dạy bởi những bài học sống động của thực tiễn kinh doanh trong cộng đồng người Hoa.

Duy Khánh / Theo Trí Thức Trẻ

Thứ Ba, 29 tháng 12, 2015

Tin Thường Ngày.: Những câu chuyện có thật về luân hồi: Đầu thai làm...

Tin Thường Ngày.: Những câu chuyện có thật về luân hồi: Đầu thai làm...:  Đời người có 4 câu hỏi lớn: Ta vốn là ai? Ta từ đâu tới? Chết rồi sẽ đi về đâu? Phải chăng luật nhân quả là có thật, thiện có thiện báo, ...

Toàn bộ quá trình đi đến âm gian sau khi con người chết đi

Sau khi chết rồi chúng ta sẽ đi đâu, sẽ trải qua những điều gì gì, và lại đầu thai như thế nào? Dưới đây là kể lại toàn bộ quá trình đi đến âm gian sau khi người ta chết đi.


Bài viết này không phải gieo rắc hoang mang cũng không phải là mê tín gì, những ai tin thì hoàn toàn có thể lý giải được, còn những ai không tin thì cũng có thể xem đây như là một câu chuyện truyền thuyết  vậy. Sau khi chết chúng ta sẽ trải qua điều gì, xin hãy xem tiếp …

Dựa vào các nền văn hóa của tôn giáo phương Đông (Phật giáo và Đạo giáo), tương truyền rằng sau khi thọ mệnh người ta kết thúc, sẽ có quỷ sai của âm gian, cũng chính là Hắc Bạch Vô Thường đến dẫn hồn phách người ta xuống Quỷ Môn quan. Sau đó lại được Tứ đại sứ giả của âm gian, cũng chính là Đầu Trâu Mặt Ngựa, dẫn vong linh đến âm tào địa phủ; tiếp đó được thẩm phán của chư vị Đại Phán quan của Thập Điện Diêm La dưới âm gian tiếp nhận. Cuối cùng mới quyết định vong linh là có thể đi vào cõi nào để tiếp tục luân hồi: hoặc là lên trời hưởng phúc lành, hoặc là tiếp tục đầu thai làm người nữa hoặc loại động vật nào đó, hoặc là bị đánh vào mười tám tầng địa ngục như trong truyền thuyết để chịu khổ hình.

Chặng đường đi xuống âm gian sau khi người ta chết đi

Tương truyền, trong quá trình đi xuống âm gian sau khi người ta chết đi thì quan ải đầu tiên là qua Quỷ Môn quan rồi, liền phải đi qua một con đường gọi là đường Hoàng Tuyền, hai bên đường nở rộ một loại hoa đẹp, chỉ thấy hoa nở không thấy lá xanh, người cõi dương gian gọi là hoa Bỉ Ngạn (hoa của cõi bên kia).

Con đường này cần phải đi rất lâu rất lâu, đến tận cuối con đường sẽ có một con sông nhỏ gọi là Vong Xuyên Hà. Trên sông có một chiếc cầu đá gọi là cầu Nại Hà, bờ đối diện bên kia của cây cầu có một gò đất gọi là Vọng Hương đài, bên cạnh Vọng Hương đài có một cái đình nhỏ gọi là đình Mạnh Bà. Ở đó có một người tên là Mạnh Bà trông chừng và đưa cho mỗi người qua đường một chén canh Mạnh Bà. Uống canh Mạnh Bà sẽ khiến người ta quên hết tất cả mọi chuyện.

Bên bờ sông Vong Xuyên còn có một tảng đá, gọi là Tam Sinh thạch (đá ba đời), ghi chép lại đời trước, đời này và đời sau của mỗi một người. Đi qua cầu Nại Hà, đứng trên Vọng Hương đài nhìn nhân gian một lần cuối cùng, sau đó mới đi vào cõi âm tào địa phủ.

Ải thứ nhất: Quỷ Môn quan

Người ta sau khi chết đi, trước hết là do quỷ sai nơi âm gian Hắc Bạch Vô Thường dẫn ba hồn bảy phách đi, rồi giao cho quỷ Đầu Trâu Mặt Ngựa đẫn đến Quỷ Môn quan –  một quan ải cần phải đi vào cõi âm gian.

Ngạn ngữ có câu: “Quỷ Môn quan, mười người đi, chín người trở về”

Trước Quỷ Môn quan có mười sáu quỷ lớn, truyền thuyết kể rằng Diêm La Vương đã đặc cách chọn ra một nhóm ác quỷ để trấn giữ cửa ải này, họ tra xét vô cùng hà khắc, nghiêm ngặt đối với những vong hồn dã quỷ mà tội ác đầy mình, bản tính hung ác không đổi; không để cho một ai có thể trà trộn đi qua quan này.

Lúc còn sống bất luận là quan chức quyền quý hay là bá tánh bình dân, ai đã đến nơi đây đều cần phải tiếp nhận tra xét, xem xem có mang theo lộ dẫn – giấy thông hành đến quỷ quốc hay không, đây là căn cứ của người sau khi chết đi đến quỷ quốc báo danh.

Lộ dẫn dài 3 thước (90 cm), rộng hai thước (60 cm), được làm bằng giấy mềm màu vàng, mặt trên viết “Lộ dẫn do Phong Đô Thiên Vũ Diêm La Đại Đế phát cho và con người khắp thiên hạ, cần phải đi qua đường này, mới có thể đến địa phủ chuyển thế thăng thiên”.

Đồng thời, trên mặt lộ dẫn có đóng ba dấu ấn của “thành hoàng âm ty, phủ huyện Phong Đô”.

Phàm là người sau khi chết đưa vào quan tài hoặc trong lúc hỏa táng đốt bỏ nó, thì sẽ theo linh hồn đến địa phủ.

Ải thứ hai: Đường Hoàng Tuyền

Qua khỏi Quỷ Môn quan, tiếp đó chính là phải đi qua một con đường Hoàng Tuyền dài đằng đẵng. Hồn phách của người ta đến âm gian báo danh sẽ phải đi một đoạn đường rất dài, qua rất nhiều quan, vì vậy, đường Hoàng Tuyền là tên gọi chung đối với những quan và lộ trình này.

Trên đường Hoàng Tuyền có hoa Bỉ Ngạn màu đỏ, từ xa mà nhìn thì giống như là tấm thảm máu trải dài, vì loài hoa này có màu đỏ như lửa nên được ví là “đường lửa chiếu rọi”. Cũng bởi nó là cảnh vật và màu sắc duy nhất trên con đường Hoàng Tuyền dài đằng đẵng này, nên mọi người cứ đi theo hoa này mà thông đến địa ngục của cõi u minh.

Dương thọ của con người đến rồi thì sẽ chết, đây là cái chết bình thường; người chết bình thường trước hết cần phải đi qua Quỷ Môn quan, hồn phách của người ta đi qua quan này rồi liền sẽ biến thành quỷ. Ngoài ra, trên đường Hoàng Tuyền còn có rất nhiều cô hồn dã quỷ, họ là những người dương thọ chưa hết mà chết bất đắc kỳ tử; họ đã không thể lên trời, cũng không thể đầu thai, càng không thể đến âm gian, chỉ có thể lang thang trên đường Hoàng Tuyền, đợi đến dương thọ kết thúc rồi mới có thể đến âm gian báo danh, nghe Diêm La Vương phán xét.

Ải thứ ba: Tam Sinh thạch

 Bên cạnh cầu Nại Hà có tảng đá xanh tên Tam Sinh thạch (đá ba đời), chữ trên đá đỏ như máu, mặt trên có khắc bốn chữ lớn “tảo đăng Bỉ Ngạn” (sớm đến bờ bên kia). Nghe nói rằng, tảng đá này ghi chép lại đời trước, đời nay và đời sau của mỗi một người. Nhân của đời trước, quả của kiếp này, duyên khởi duyên diệt, đều chất chồng mà khắc trên tảng đá ba đời.
Trăm nghìn năm nay, nó đã chứng kiến sầu khổ và mừng vui, bi ai và hạnh phúc, nụ cười và nước mắt, cho đến hết thảy những món nợ và những tình cảm phải trả của tầng tầng lớp lớp chúng sinh; Đứng trước tảng đá ba đời này là thấu tỏ hết.
Ải thứ tư: Vọng Hương đài


Bên cạnh cầu Nại Hà có tảng đá xanh tên Tam Sinh thạch (đá ba đời), chữ trên đá đỏ như máu, mặt trên có khắc bốn chữ lớn “tảo đăng Bỉ Ngạn” (sớm đến bờ bên kia). Nghe nói rằng, tảng đá này ghi chép lại đời trước, đời nay và đời sau của mỗi một người. Nhân của đời trước, quả của kiếp này, duyên khởi duyên diệt, đều chất chồng mà khắc trên tảng đá ba đời.

Trăm nghìn năm nay, nó đã chứng kiến sầu khổ và mừng vui, bi ai và hạnh phúc, nụ cười và nước mắt, cho đến hết thảy những món nợ và những tình cảm phải trả của tầng tầng lớp lớp chúng sinh; Đứng trước tảng đá ba đời này là thấu tỏ hết.

Ải thứ tư: Vọng Hương đài


“Trên Vọng Hương đài quỷ hốt hoảng, mắt mở trừng trừng lệ hai hàng. Vợ con già trẻ tựa bên hòm, bạn bè thân quyến trước linh đường”

Vọng Hương đài, cũng chính là Thổ Cao đài, nơi có đình Mạnh Bà, là ở phía trước cây cầu, chứ không phải ở phía sau cây cầu.

Vọng Hương đàì lại gọi là “Tư Hương lĩnh” (đồi nhớ quê)

Ở nơi này, có thể lên đài nhìn về ngôi nhà nơi dương thế, vậy nên nơi đây đã trở thành cửa sổ nhìn về dương gian của quỷ hồn và Thánh địa, là nơi liên lạc tình cảm giữa người sống và người chết.

Truyền thuyết kể rằng, con người ta sau khi chết rồi, “ngày đầu tiền không ăn cơm nơi cõi người, ngày thứ hai liền qua âm dương giới, ngày thứ ba đến Vọng Hương đài, nhìn thấy người thân đang khóc lóc thảm thiết”.

Quỷ hồn đến trước địa phủ báo cáo, rất là nhớ mong người thân nơi dương thế. Dù cho quỷ tốt giận dữ quát mắng, vẫn nhất quyết muốn lên Vọng Hương đài nhìn về quê nhà, khóc lớn một trận mới hết hy vọng và đi đến “Âm tào địa phủ”.

Theo truyền thuyết, Vọng Hương đài là nơi mà vong hồn nhìn về dương thế tạm biệt người thân một lần cuối cùng. Lại có truyền thuyết rằng, kiến tạo của Vọng Hương đài nơi âm gian rất kỳ lạ, trên rộng dưới hẹp, mặt như cánh cung, lưng như dây cung ngang nhau, ngoài một con đường đá rất nhỏ ra, còn lại đều là núi đao rừng kiếm, hiểm trở vô cùng. Đứng ở trên đó, năm châu bốn biển đều có thể nhìn thấy.

Ải thứ năm: Vong Xuyên hà

 Vong Xuyên hà còn gọi “Tam Đồ hà”, chắn ngang giữa đường Hoàng Tuyền và âm phủ. Nước sông có màu đỏ như máu, bên trong hết thảy đều là cô hồn dã quỷ không được đầu thai, trùng rắn khắp nơi, những trận gió tanh hôi tạt thẳng vào mặt.

Đương nhiên, vì để kiếp sau có thể gặp lại người mình yêu thương nhất trong kiếp này, bạn có thể không uống canh Mạnh Bà, vậy cần phải nhảy vào Vong Xuyên hà, đợi trên nghìn năm mới có thể đầu thai.

Trong nghìn năm đó, hoặc có lẽ sẽ nhìn thấy người mà mình yêu thương nhất trong kiếp này đi trên đầu, nhưng không thể nói chuyện với nhau, bạn thấy họ, nhưng họ lại không thấy bạn. Trong nghìn năm đó, bạn nhìn thấy họ hết lần này lại đến lần khác đi qua cầu Nại Hà, uống canh Mạnh Bà hết chén này lại chén khác, tuy mong họ không uống canh Mạnh Bà nhưng lại sợ rằng họ chịu không nổi cái khổ dày vò nghìn năm trong Vong Xuyên Hà này.

Sau nghìn năm, nếu như lòng nhớ nhung của bạn không hề giảm đi, còn có thể nhớ được chuyện của đời trước, vậy thì có thể trở lại nhân gian, tìm kiếm người mà bạn yêu nhất trong đời trước.

Ải thứ sáu: Canh Mạnh Bà

 Canh Mạnh Bà còn gọi là Vong Tình Thủy hoặc Vong Ưu Tán, hễ uống vào liền quên hết mọi chuyện của đời này lẫn đời trước. Mạnh Bà phân phát canh Mạnh Bà ở đầu cầu Nại Hà, chứ không phải ở trên cầu.
Mỗi một người đều phải đi qua cầu Nại Hà, Mạnh Bà đều sẽ hỏi có uống canh Mạnh Bà không, nếu muốn qua cầu Nại Hà, thì cần phải uống canh Mạnh Bà. Còn không uống canh Mạnh Bà, thì không qua được cầu Nại Hà, không qua được cầu Nại Hà, thì không được đầu thai chuyển sinh.
Mỗi một người trong dương gian đều có một cái chén của mình ở tại nơi này, canh Mạnh Bà trong chén, thật ra chính là nước mắt chảy suốt một đời của bản thân người ta khi còn sống. Mỗi một người khi còn sống, đều sẽ chảy nước mắt: hoặc vui, hoặc buồn, hoặc đau khổ, hoặc căm hận, hoặc sầu não, hoặc yêu thương …
Mạnh Bà thu giữ từng giọt từng giọt nước mắt của họ lại, đun nấu thành canh, khi họ rời khỏi nhân gian, đi đến đầu cầu Nại Hà, sẽ cho họ uống vào, quên hết yêu hận tình thù khi còn sống, kiền tịnh sạch sẽ, bắt đầu tiến nhập vào Lục đạo, hoặc là Tiên, hoặc là người, hoặc là súc sinh, v.v…
Không phải mỗi người đều sẽ can tâm tình nguyện uống canh Mạnh Bà. Bởi vì một đời này, sẽ luôn có người từng yêu không muốn quên đi. Mạnh Bà sẽ nói với họ: “Nước mắt cậu rơi vì người ấy đều đã nấu thành chén canh này, uống nó rồi, chính là uống vào tình yêu cậu dành cho người đó vậy”.  Một ký ức được xóa đi sau cùng trong mắt người ta chính là người mà họ yêu nhất trong đời này, uống canh vào, hình bóng người trong mắt dần dần phai nhạt đi, con mắt trong sáng như đứa trẻ sơ sinh.
Uống canh Mạnh Bà rồi, có thể quên đi hết thảy sầu khổ, buồn vui nơi trần thế, chỉ uống canh thuốc của bà, mối thù trong đời này kiếp này sẽ quên sạch đi, đến thế gian làm một con người hoàn toàn mới.
Những người mong nhớ, những người thống hận, đời sau đều sẽ là người xa lạ; loại canh khiến người ta gặp nhau mà chẳng biết nhau này chính là canh Mạnh Bà.
Ải thứ bảy: Cầu Nại Hà







Canh Mạnh Bà còn gọi là Vong Tình Thủy hoặc Vong Ưu Tán, hễ uống vào liền quên hết mọi chuyện của đời này lẫn đời trước. Mạnh Bà phân phát canh Mạnh Bà ở đầu cầu Nại Hà, chứ không phải ở trên cầu.

Mỗi một người đều phải đi qua cầu Nại Hà, Mạnh Bà đều sẽ hỏi có uống canh Mạnh Bà không, nếu muốn qua cầu Nại Hà, thì cần phải uống canh Mạnh Bà. Còn không uống canh Mạnh Bà, thì không qua được cầu Nại Hà, không qua được cầu Nại Hà, thì không được đầu thai chuyển sinh.

Mỗi một người trong dương gian đều có một cái chén của mình ở tại nơi này, canh Mạnh Bà trong chén, thật ra chính là nước mắt chảy suốt một đời của bản thân người ta khi còn sống. Mỗi một người khi còn sống, đều sẽ chảy nước mắt: hoặc vui, hoặc buồn, hoặc đau khổ, hoặc căm hận, hoặc sầu não, hoặc yêu thương …

Mạnh Bà thu giữ từng giọt từng giọt nước mắt của họ lại, đun nấu thành canh, khi họ rời khỏi nhân gian, đi đến đầu cầu Nại Hà, sẽ cho họ uống vào, quên hết yêu hận tình thù khi còn sống, kiền tịnh sạch sẽ, bắt đầu tiến nhập vào Lục đạo, hoặc là Tiên, hoặc là người, hoặc là súc sinh, v.v…

Không phải mỗi người đều sẽ can tâm tình nguyện uống canh Mạnh Bà. Bởi vì một đời này, sẽ luôn có người từng yêu không muốn quên đi. Mạnh Bà sẽ nói với họ: “Nước mắt cậu rơi vì người ấy đều đã nấu thành chén canh này, uống nó rồi, chính là uống vào tình yêu cậu dành cho người đó vậy”.  Một ký ức được xóa đi sau cùng trong mắt người ta chính là người mà họ yêu nhất trong đời này, uống canh vào, hình bóng người trong mắt dần dần phai nhạt đi, con mắt trong sáng như đứa trẻ sơ sinh.

Uống canh Mạnh Bà rồi, có thể quên đi hết thảy sầu khổ, buồn vui nơi trần thế, chỉ uống canh thuốc của bà, mối thù trong đời này kiếp này sẽ quên sạch đi, đến thế gian làm một con người hoàn toàn mới.

Những người mong nhớ, những người thống hận, đời sau đều sẽ là người xa lạ; loại canh khiến người ta gặp nhau mà chẳng biết nhau này chính là canh Mạnh Bà.

Ải thứ bảy: Cầu Nại Hà

“Đi qua đầu cầu Nại Hà, một đi không ngoảnh đầu nhìn lại”.

Cây cầu chia thành ba tầng, tầng trên đỏ, tầng giữa màu vàng đen, tầng dưới cùng là màu đen, càng ở tầng thấp thì càng chật, càng hung hiểm vô cùng. Khi sống làm việc thiện thì đi tầng trên, người nửa thiện nửa ác thì đi tầng giữa, những người hành ác thì chính là đi tầng dưới cùng.

Bên dưới cầu là con sông có vô số cô hồn dã quỷ không được đầu thai; những quỷ hồn chết đuối kia đều là ở trên dưới nhịp cầu hoặc trái phải đầu cầu, mong tìm thế thân cho mình, để bản thân có thể đầu thai chuyển thế.

Những người đi tầng dưới sẽ bị quỷ hồn chặn lại, lôi vào trong sóng lớn bẩn thỉu, bị rắn đồng chó sắt cắn xé, chịu đủ thống khổ dày vò không được giải thoát.

Đi qua hết cầu Nại Hà bèn có thể thông đến sáu nơi, tức là đi vào cõi lục đạo luân hồi: cõi người trời, cõi A-tu-la, cõi người, cõi súc sinh (cũng goi là đường bên cạnh), cõi quỷ đói, cõi địa ngục.

Trong đó, người trời, A-tu-la là cõi người thuộc về ba đường trên, còn súc sinh, ác quỷ, địa ngục thì thuộc về ba đường dưới.

Còn về đi về cõi nào, là dựa vào nghiệp thiện ác tích được của vong hồn lúc còn sống mà phân loại. Người thiện nghiệp nhiều luôn luôn sẽ được bố trí ba đường trên, những người ác nghiệp nhiều luôn luôn được bố trí ba đường dưới.

Quá trình đi xuống âm gian của người ta sau khi chết vốn không thông dụng với hết thảy mọi người. Những người tu hành làm thiện nếu như công đức đạt đến viên mãn, sau khi hết mệnh sẽ không phải trải qua quá trình âm gian này mà trực tiếp  được Phật tiếp dẫn đến thế giới tây phương Cực Lạc; những kẻ đại ác làm nhiều việc gian ác cũng có thể  sẽ không trải qua quá trình âm gian này, bởi nghiệp lực dẫn dắt mà sẽ bị đánh thẳng vào địa ngục.

Đây là truyền thuyết lưu truyền hơn hàng nghìn năm nay, tuy khoa học không cách nào chứng thực được, nhưng vẫn mãi ảnh hưởng đến tâm linh của người ta, hết thảy mọi người không khỏi hiếu kì, e sợ …

Còn bạn, bạn có nghĩ rằng tồn tại thế giới sau khi chết không?

Bất luận đáp án của bạn là gì, lựa chọn tốt nhất đều nên là …“Nắm chắc hiện tại, tu hành đúng lúc”, như vậy mới có thể vừa vui vẻ lại an lòng!

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015

Giống người cổ đại nổi tiếng tuyệt chủng vì loạn luân?

Phân tích ADN từ xương ngón chân hóa thạch người phụ nữ Neanderthal có niên đại 50 nghìn năm cho thấy dấu hiệu giao phối cận huyết có thể đã xảy ra phổ biến trong các thế hệ người cổ đại này.
Theo Tiến sĩ Kay Prufer, Viện tiến hóa Nhân chủng học Max Planck tại Đức cho biết, xương ngón chân này được phát hiện tại hang động ở Siberia từ năm 2010. Đây cũng là nơi phát hiện ra hóa thạch của người Denisovan từ năm 2008.
Xương ngón chân tiết lộ giao phối cận huyết ở người Neanderthal. (Ảnh: mpg.de)

Sau khi phân tích giải trình tự ADN và kiểm tra hệ gene ty thể của hóa thạch cho thấy, gene chỉ được di truyền từ một người mẹ duy nhất. Điều đó có thể khẳng định cha mẹ của người phụ nữ này có huyết thống rất gần nhau.
“Chúng tôi cho rằng, cha mẹ của người Neanderthal này là anh em cùng chung một mẹ, hoặc là chú và cháu gái, cô, dì và cháu trai, một người ông và một người cháu gái, hoặc bà và cháu trai”, nhóm nghiên cứu hóa thạch khẳng định.

Giao phối cận huyết khiến người Neanderthal tuyệt diệt?

Đáng chú ý ở chỗ, phân tích còn tiết lộ giao phối cận huyết như trên không phải là sự kiện diễn ra hiếm hoi. “Các bậc cha mẹ có huyết thống rất gần, ngay cả khi phân tích thế hệ trước của họ cũng có điều này”, tiến sỹ Prufer nói. Đồng thời chính sự giao phối cận huyết này có thể dẫn tới hệ quả dân số người Neanderthal khá nhỏ và làm cho họ bị tuyệt chủng.
Ngoài ra, kết quả giải trình tự ADN của hóa thạch cũng cho thấy người Neanderthal và người hiện đại có nguồn gốc từ người Denisovan đã từng có sự kết hợp với nhau vào khoảng cuối kỉ Pleistocene (12.000-126.000 năm trước).
Toàn bộ những phát hiện này đã được đăng tải trực tuyến trên tạp chí Nature ngày 19/12/2013.

Vì sao Thái Bình công chúa không kế nghiệp Võ Tắc Thiên?

Thái Bình công chúa có nhiều tham vọng chính trị và nhiều mưu mô giống mẹ, nhưng bà không thể xưng danh hoàng đế như Võ Tắc Thiên dù có tố chất và nhiều điều kiện thuận lợi.

Tố chất của hoàng đế

Võ Tắc Thiên và Đường Cao Tông Lý Trị có 4 người con, 2 trai, 2 gái, trong đó, Võ Tắc Thiên đặc biệt sủng ái con gái út, Thái Bình công chúa. Cũng giống như mẹ, Thái Bình công chúa là người mưu mô và tham quyền. Bà đã gài người thân cận vào làm nội gián để theo dõi mẹ đẻ. Biết mẹ là người đam mê dục vọng nên bà đã cống nạp cho Võ Tắc Thiên hai người đàn ông là Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi. Hai người này đã lấy được lòng tin của Võ Tắc Thiên và được cho nhiều quyền hành, làm đủ mọi chuyện lộng hành ngoài cung mà Võ Tắc Thiên cũng không hề hay biết.
Lợi dụng tình hình, Thái Bình công chúa xúi hai người này khởi binh làm phản, ép mẹ bỏ ngai vàng, truyền ngôi cho Lý Hiển. Ban đầu Võ Tắc Thiên không đồng ý nhưng Thái Bình đã khuyên mẹ từ bỏ để làm Thái Thượng Hoàng, cuối cùng Võ Tắc Thiên đã đồng ý. Với công này, bà được tôn là Trấn Quốc Thái Bình công chúa.
Vị thế của Thái Bình công chúa không ngừng lớn mạnh, trở thành công chúa có quyền lực cao nhất của nhà Đường. Với sự hỗ trợ của bà, Lý Đản đã đăng cơ sau khi lật đổ âm ưu của Vi Hậu và công chúa An Lạc và truất ngôi tiểu hoàng đế. Khi Lý Đản đăng cơ thường xuyên bàn bạc việc quân cơ với bà, mỗi lần Thái Bình công chúa vào triều bàn việc đều ngồi trò chuyện với Lý Đản rất lâu. Nếu Thái Bình công chúa không lên triều Lý Đản sẽ phái Tể tướng đến chỗ bà để xin ý kiến.
Mỗi lần các Tể tướng cho bản tấu Lý Đản đều hỏi: "Việc này đã yết kiến Thái Bình công chúa chưa?", rồi mới hỏi: "Đã yết kiến Tam Lang (Thái tử Lý Long Cơ) chưa?" Nếu Tể tướng xác nhận đã được sự cho phép của Thái Bình công chúa đồng ý thì Lý Đản mới đồng ý và mọi việc công chúa muốn Lý Đản đều đồng ý. Trong triều bách quan văn võ từ Tể tướng trở xuống hoặc tán thưởng, hoặc tránh né, nhất nhất nghe theo ý của bà.
Tháng 6/710, Đường Trung Tông băng hà, do Vi hoàng hậu và An Lạc công chúa hạ độc. Vi hoàng hậu muốn nhân đó chiếm ngôi vị, làm một Võ Tắc Thiên tiếp theo, nhưng Thượng Quan Uyển Nhi cùng Thái Bình công chúa đưa di chiếu lập Ôn vương Lý Trọng Mậu làm vua, tức Đường Thương Đế.
Sau đó, Thái Bình công chúa đã dùng thế lực phối hợp với người cháu là Lý Long Cơ, con của Lý Đán, và lập người này làm vua. Lý Long Cơ làm vua nhưng sau này chính hai cô cháu lại tranh giành quyền lực của nhau. Và cuối cùng Thái Bình công chúa phải chết dưới tay Lý Long Cơ.

Không thể trở thành nữ hoàng đế thứ hai

Theo Lsguhsi, một trang web về lịch sử của Trung Quốc, dù có tố chất và uy quyền mạnh mẽ như trên nhưng Thái Bình công chúa không được lòng dân, không được lòng quần thần. Ngoài ra, triều đình cũng đã cảnh giác với việc một người đàn bà can dự vào triều chính nên Thái Bình công chúa không thể trở thành một Võ Tắc Thiên thứ hai.
Theo lẽ thường, được lòng dân sẽ được thiên hạ, bằng không sẽ mất đi sự ủng hộ của dân chúng. Trong khi đó, Thái Bình công chúa là người tham tiền bạc, ung dung cướp tài sản của thuộc hạ, tranh chấp quyền lợi với dân chúng, do đó không được lòng dân. Được yêu chiều từ nhỏ, lại chịu ảnh hưởng từ mẹ là Võ Tắc Thiên, cộng thêm những biến cố của tuổi thơ cùng sự thất bại hai cuộc hôn nhân đã tạo nên một Thái Bình công chúa ích kỉ, tham quyền, tham tiền tài.
Thái Bình công chúa dùng tiền để khuếch trương thế lực và mua chuộc kẻ dưới, chính vì vậy thuộc hạ dưới quyền bà hầu hết đều không thể trọng dụng lâu dài. Đám người này không lấy trị an đất nước làm tôn chỉ mà chỉ quan tâm tới quyền lực của bản thân, quan tâm tới lợi ích của Thái Bình công chúa. Xét về nhân phẩm hay năng lực, những kẻ này đều không thể so sánh được với thuộc hạ của Lý Long Cơ. Chính vì vậy bà đã thua cuộc trong trận chiến tranh giành quyền lực với chính kẻ bà đưa lên ngai vàng.
Đời tư của Thái Bình công chúa cũng phức tạp, gây bất mãn trong triều thần. Theo "Hạ Lan Mẫn truyện" việc bị anh họ Hạ Lan Mẫn cưỡng bức đã gây ảnh hưởng tâm lý rất lớn đến Thái Bình công chúa và cũng là khởi nguồn cho bất hạnh trong đời sống riêng tư của bà. Người chồng đầu tiên của bà là Tiết Thiệu. Thời gian đầu, cuộc sống giữa Thái Bình Công chúa và Tiết Thiệu cũng có thể coi là hạnh phúc. Tuy nhiên, chỉ được 7 năm, cuộc hôn nhân này bắt đầu rạn nứt.
Sau khi Tiết Thiệu bị giết vì tạo phản, Thái Bình công chúa kết hôn với Võ Du Kỵ là cháu trai của Võ Tắc Thiên. Nhưng cuộc hôn nhân này cũng không mấy suôn sẻ do ảnh hưởng từ Võ Tắc Thiên. Theo "Tự trị thông giám", Thái Bình công chúa đã tư thông với ít nhất ba người và họ đều núp bóng công chúa làm nhiều việc xấu.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là từ sau khi Võ Tắc Thiên lên ngôi và thay nhà Đường thành nhà Võ, triều đình và dân chúng đều rất cảnh giác với việc một người đàn bà can dự vào triều chính. Trong bối cảnh xã hội như vậy bất kỳ một ý đồ nhiếp chính nào của phụ nữ cũng sẽ đi đến thất bại. Giống như Vi Hậu và công chúa An Lạc, Thái Bình công chúa không phải là ngoại lệ.
Do đó, dù có tài giỏi đến đâu thì Thái Bình cũng không thể thực hiện giấc mơ hoàng đế. Vương triều Đại Đường cũng như trong suốt các triều đại phong kiến Trung Quốc, duy nhất một người đàn bà có thể đứng lên làm hoàng đế, chấp chính thành công, là Võ Tắc Thiên.

Những bí ẩn kinh ngạc trong lăng mộ Võ Tắc Thiên

Giáo sư Lưu cho rằng, chỉ tính riêng địa cung, nơi đặt quan tài của Càn Lăng, có tới 800 tấn châu báu, của cải.

Lịch sử Trung Quốc có tới 231 vị hoàng đế, tuy nhiên, chỉ có một nữ hoàng, chấp chính như hoàng đế, đó là Võ Tắc Thiên. Vị nữ hoàng này gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Võ Tắc Thiên cùng chồng, là hoàng đế Đường Cao Tông được táng trong Càn Lăng, ở tỉnh Thiểm Tây, thuộc tây bắc Trung Quốc.
Võ Tắc Thiên (624-705) tên thật là Võ Chiếu, vốn là tì thiếp của hoàng đế Đường Thái Tông. Đường Thái Tông qua đời, bà trở thành phi tần của Đường Cao Tông, tức con của Đường Thái Tông. Sủng ái vợ, vị vua này đã đưa bà lên làm hoàng hậu.
Lăng mộ Võ Tắc Thiên
Chồng qua đời, bà nắm quyền bính. Tuy đương thời chỉ trích việc làm vợ của cả bố lẫn con, lại hoang dâm vô độ, nhưng bà thực sự là người tài. Bà biết sử dụng nhân tài, khiến đất nước Trung Hoa thịnh trị trong suốt 16 năm cầm quyền của bà.
Lăng Càn Long hiện là một trong số ít lăng mộ còn nguyên vẹn. Lăng Càn Long nằm ở núi Lương Sơn. Nhìn từ xa, lăng mộ khổng lồ gồm dải núi như người đàn bà nằm ngủ.
Càn Lăng được xây dựng suốt 30 năm, bắt đầu từ năm 638. Đường vào Càn Lăng được bố trí bởi 103 tượng đá, trong đó có 61 tượng biểu trưng cho các bộ tộc khác nhau của Trung Hoa. Điều đáng chú ý là 61 tượng các bộ tộc đều mất đầu bởi những nhát chém.
Hiện chưa có sự lý giải cho việc này. Nhiều khả năng do thế hệ sau phá hủy những tượng đá này. Còn nguyên nhân vì sao lại chỉ chặt đầu thì chưa rõ.

Tấm bia mộ khổng lồ không có chữ

Gây tranh cãi nhất là tấm bia khổng lồ, cao tới 7,5m, nặng gần 100 tấn, không có chữ nào, gọi là vô tự. Trong khi ở phía tây, tấm bia trước lăng mộ Đường Cao Tông thì có những dòng chữ chói vàng óng ánh ca ngợi công đức.
Bia mộ Võ Tắc Thiên chỉ có 8 đầu rồng quấn vào nhau. Hai bên thân bia khắc hai con đường. Trên con đường khắc một con tuấn mã và một con sư tử.
Có nhiều lý giải cho hiện tượng này. Một trường phái cho rằng, công đức của bà lớn quá, không thể dùng lời tả được. Trường phái khác nêu rằng, đó là ý tưởng của bà, để đời sau tự đánh giá. Cũng lại có ý kiến khẳng định, khi bà chết đi, đã không thống nhất được việc khắc bia tự, bởi có nhiều tranh cãi về công và tội. Chính vì thế, quần thần đã để bia trơn.

Cổng vào lăng mộ

Theo lẽ thường, sợ đời sau phá mộ, hoặc trộm cắp, nên các vua chúa thường đặt mộ ở nơi kín đáo. Những ngôi mộ lộ thiên đều đã bị trộm xâm phạm. Tuy nhiên, 1.300 năm qua, Càn Lăng vẫn vững chãi, thách đố bọn trộm.
Tháng 7-1971, phi thuyền Apollo của Mỹ khi bay vào quỹ đạo mặt trăng đã chụp được những đốm đen ở cao nguyên Vị Bắc. Có tới 20 điểm mà vệ tinh Mỹ chụp được, nghi vấn là cơ sở bí mật sản xuất bom nguyên tử.
Tuy nhiên, năm 1981, khi thực địa, các nhà khoa học mới xác định đó là những ngôi mộ thời Hán – Đường. Đốm đen rõ nhất chính là Càn Lăng. Việc những ngôi mộ thể hiện đốm đen đã đặt ra nghi vấn, rằng trong những ngôi mộ này có rất nhiều châu báu, hoặc chứa đầy thủy ngân.
Năm 1060, người dân đã đào bới, xâm nhập vào một đoạn đường hầm dẫn vào lăng mộ.

Những bức tượng bị chặt đầu

Các phiến đá được kết dính với nhau bằng cách thức vô cùng kỳ lạ, thách đố các nhà khoa học, vật lý, kiến trúc đương thời. Qua phân tích, thì thấy thứ kết dính các khối đá khổng lồ là… thép nung chảy. Thứ vật liệu kết dính kỳ lạ này khiến công trình cực kỳ bền vững, thách thức thời gian.
Người có kiến thức vật lý thông thường cũng biết rằng, dung dịch thép nung chảy ở nhiệt độ 1000 độ C, tiếp xúc với đá, sẽ khiến đá nứt vỡ, chứ không thể kết dính được.
Vì Càn Lăng chưa được khai quật, nên có vô số đồn đoán về nó. Nhà văn hóa Quách Mạt Nhược tin rằng, chắc chắn trong lăng mộ sẽ có hàng vạn thư tịch, danh họa. Theo ông, không chừng sẽ tìm được 100 quyển Thùy Củng Tập và 10 cuốn Kim Luân Tập đã thất lạc của Võ Tắc Thiên, chỉ nghe tên, chưa ai được thấy.
Theo sử sách, Đường Cao Tông là người rất yêu thích hội họa. Trước khi chết, ông yêu cầu đưa tất cả những bức họa ông thích vào Càn Lăng. Như vậy, có thể có một kho hội họa khổng lồ trong mộ.
Qua nghiên cứu của các nhà khoa học, trong số 20 lăng mộ Hán – Đường ở đây, thì duy nhất Càn Lăng chưa bị đột nhập, vì nó quá kiên cố.

Sử sách chép rõ, lăng mộ được xây dựng bởi 2,3 triệu mét khối đất đá. Lăng có 2 vòng thành bao bọc. Vòng thành trong dài 5km. Lăng mộ có tới 387 phòng lộng lẫy, gồm Hiến điện, Khuyết lâu, Vương tân điện, từ đường của 61 công thần, hạ cung.
Vòng thành ngoài dài tới 80km. Xét về mức độ vĩ đại, những kim tự tháp ở Ai Cập có lẽ cũng khó có thể so sánh với Càn Lăng.
Lăng chính có 4 cửa, bố trí đường tư mã, trụ hoa biểu, tượng ngựa, lạc đà, sư tử, bia ký, trụ khắc đá... đều to lớn khác thường.
Con đường từ đầu cổng lăng đi vào cửa mộ dài 631m, lát đá xanh khổng lồ. Cửa vào chốt sắt khóa cố định. Khe hở được trám bằng sắt nung chảy, nên trộm không thể công phá được.
Có vô số lời đồn liên quan đến lăng mộ này. Người ta tin rằng, hễ động đến lăng mộ là giông bão nổi lên, sét đánh dữ dội. Sử sách ghi lại vô số lần xâm phạm lăng mộ đều chết bất đắc kỳ tử.
Lịch sử thống kê được tới 17 lần ngôi mộ bị xâm phạm với quy mô lớn, còn những vụ đào trộm quy mô nhỏ thì thời nào cũng có.
Cuối đời Đường, lãnh tụ nông dân Hoàng Sào khởi nghĩa, đã huy động tới 40 vạn dân binh đào bới, hy vọng lấy được của cải nhưng không thành công, để lại những hố sâu tới 40 mét vào lòng núi.
Đời Ngũ Đại, thứ sử Diệu Châu là Ôn Đạo, một vị quan lớn, đã huy động binh sĩ đào hơn 10 lăng mộ nhà Đường, thu được cả núi châu báu, giàu có không kể xiết.
Có được nhiều cháu báu, ông ta huy động tới 2 vạn người quyết tâm khai quật Càn Lăng. Tuy nhiên, quá trình đào bới rất nhọc công, nhiều người chết, bệnh, mưa gió vần vũ, sét đánh suốt ngày, nên phải dừng lại.
Thời Quốc dân đảng, tướng Tôn Liên Trọng đã huy động một binh đoàn với thuốc nổ, phá 3 tầng nham thạch vào trong núi, song vẫn không thành công.
Điều gây tò mò nhất là trong lăng Càn Long sẽ có bao nhiêu của cải? Giáo sư Lưu Hậu Tân cho rằng, trong lăng Càn Long, số lượng của cải nhiều… không kể xiết.
Triều Đường phát triển cực thịnh, các đấng quân vương sinh hoạt thoải mái, xa xỉ hơn đời Tần, Hán rất nhiều. Vì thế, trong các lăng mộ hoàng đế, số của cải táng theo cũng nhiều hơn, quý hơn.
Giáo sư Lưu cho rằng, chỉ tính riêng địa cung, nơi đặt quan tài của Càn Lăng, có thể tích 5.000 mét khối, thì phải có tới 800 tấn châu báu, của cải.
Vì Càn Lăng khổng lồ hiển hiện trước mắt, thu hút hàng triệu khách tham quan, lại chưa bị khai quật, nên Càn Lăng được coi là lăng mộ bí ẩn nhất Trung Hoa cho đến hiện tại.

Tội ác của Võ Tắc Thiên được dân gian truyền lại ra sao?

Cùng tìm hiểu những câu chuyện kể về sự tàn nhẫn và độc ác của Võ Tắc Thiên – nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử phong kiến Trung Hoa.
Võ Tắc Thiên được biết đến là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử phong kiến Trung Hoa. Bà cũng nổi danh là một phụ nữ mưu trí trong việc trị quốc và đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Sinh thời, Võ Tắc Thiên có bốn con trai và hai con gái. Các hoàng tử là Lý Hoằng, Lý Hiền, Lý Hiển và Lý Đán. Hai người còn lại là An Định và Thái Bình công chúa. Năm 690, Võ Tắc Thiên lên ngôi, mong muốn kế nghiệp nhà Chu nên tôn Chu Văn Vương làm thủy tổ.
Tuy nhiên, người phụ nữ này cũng để lại cho hậu thế rất nhiều giai thoại, điều tiếng không hay về thói trăng hoa, đa tình cũng như sự độc ác, tàn nhẫn, bất chấp thủ đoạn của mình.
Dưới đây là những câu chuyện được truyền tụng nhiều về góc khuất ấy trong cuộc đời Võ Hậu.

1. Hãm hại hoàng hậu để tiếm quyền

Võ Tắc Thiên trong hoàng cung ban đầu chỉ là một thiếp của vua Đường Cao Tông (628 - 683) với danh xưng Võ Chiêu Nghi. Năm 654, Võ Chiêu Nghi hạ sinh một bé gái là công chúa An Định (tên thật là Lý Lệnh Ngọc).
Tuy nhiên, không hiểu lý do vì sao công chúa lại chết yểu sau khi Vương hoàng hậu tới thăm. Đường Cao Tông kết tội Vương hoàng hậu, cho rằng bà làm vậy vì ghen tức với đứa con của Võ Chiêu Nghi.

Chuyến viếng thăm công chúa An Định là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới kết cục bi thảm của bà
Kể từ đó, Vương hoàng hậu luôn tìm cách hại và trả thù quý phi họ Võ. Bà và Tiêu Thục Phi định tìm cách yểm bùa hãm hại Võ Chiêu Nghi. Sự việc bại lộ, cả hai bị phế và đầy vào lãnh cung.
Không lâu sau, Võ Tắc Thiên trở thành hoàng hậu. Để trả thù và tránh Đường Cao Tông không lưu luyến hai ái thiếp, Võ Hậu đã bày cách hành hạ, tra tấn hai quý phi trong lãnh cung.

Tiêu Thục Phi...

...Vương hoàng hậu là hai nạn nhân của cuộc chiến chốn cung cấm dưới tay Võ Tắc Thiên. (Ảnh minh hoạ)
Người đời sau kể lại, bà đã ra lệnh cho chặt tứ chi của Vương hoàng hậu và Tiêu Thục Phi, sau đó ngâm họ trong thùng rượu lớn cho tới chết. Các cung nữ biết chuyện thậm chí còn bị Võ Tắc Thiên cắt lưỡi để không thể nói ra bí mật động trời ấy.

Nhiều người cho rằng, chính vì từng trải qua những cực hình tra tấn mà Võ Tắc Thiên trở nên tàn bạo và nhẫn tâm tới vậy.

Vương hoàng hậu và Tiêu Thục Phi vì thế hận Võ Tắc Thiên tới mức thề sẽ hóa thành mèo trả thù bà. Người xưa cho rằng, đó cũng là lý do mà Võ Tắc Thiên đặc biệt sợ mèo. Hàng đêm, bà thường xuyên bị ám ảnh bởi tiếng mèo kêu tới nỗi mất ngủ.

Cái chết của Tiêu Thục Phi và Vương hoàng hậu khiến Võ Hậu luôn bị ám ảnh và sợ loài mèo.

2. Hại chết con và tôn thất, từng bước lên ngôi hoàng đế

Trên con đường trở thành vua, Vương hoàng hậu và Tiêu Thục Phi không phải là nạn nhân duy nhất của Võ Tắc Thiên.

Để nắm được quyền hành, Võ Tắc Thiên được cho là đã bất chấp giết chết con ruột của mình. Dân gian truyền rằng, tại lãnh cung, Võ Tắc Thiên đã thừa nhận mình chính là người bóp mũi khiến công chúa An Định chết yểu rồi vu oan cho Vương hoàng hậu.

Sau này, bà ép thái tử Lý Trung chết, lập Lý Hoằng là con cả của mình làm thái tử. Khi Lý Hoằng bất mãn với việc can dự triều chính của Võ Hậu, ông cũng bị mẹ đầu độc chết trong chuyến thăm hành cung ở Hà Bắc. Con thứ hai của bà là Lý Hiền lên làm thái tử cũng vì bất kính mà bị Võ Tắc Thiên ép tự tử năm 684.

Võ Tắc Thiên - Người phụ nữ dám làm tất cả.

Thay thế thái tử Lý Hiền là Lý Hiển lên ngôi năm 683. Chỉ sau một tháng trên ngôi báu, lấy cớ vợ Đường Trung Tông Lý Hiển là yêu nữ lộng quyền, Võ Hậu quyết định phế vua. Tình trạng tương tự tiếp tục diễn ra và tới năm 690, Võ Tắc Thiên chính thức trở thành hoàng đế.

3. Thảm sát những người tình

Trở thành hoàng đế là thời điểm Võ Tắc Thiên bộc lộ rõ nhất tính trăng hoa của mình. Theo truyền thuyết dân gian, bà có rất nhiều người tình, trong đó có thể kể tới anh em Trương Xương Tông và Trương Diệc Chi, Trầm thái y hay Phùng Tiểu Bảo.

Tuy nhiên, họ chỉ ở bên Võ Hậu được một thời gian rồi sau đó tất cả đều bị hại chết. Như Phùng Tiểu Bảo bị Võ Tắc Thiên sai Thái Bình công chúa dùng cung nữ đánh cho tới chết rồi đem xác trộn với bùn.


Trong phần lớn các tác phẩm, Võ Tắc Thiên luôn được nhắc tới như một người phụ nữ đa tình

Khi bị thất sủng, Võ Hậu sai người giết họ rồi vứt xác xuống hồ. Sau này, Đường Huyền Tông (685 - 762) Lý Long Cơ lật đổ Võ Tắc Thiên đã sai đào hồ và phát hiện hàng đống xương người bên dưới.

Chân dung vua Đường Huyền Tông.

Tạm kết: Có một sự thật là rất nhiều chi tiết trong các câu chuyện về Võ Tắc Thiên chỉ là lời kể truyền miệng của dân gian. Hiện, các nhà khoa học vẫn đang tranh luận và bàn cãi về tính xác thực của những câu chuyện này.